Dịch hạch là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, tiến triển cấp tính, lây lan mạnh với tỷ lệ tử vong cao. Được xếp vào diện phải kiểm dịch và khai báo quốc tế.
Ở Việt Nam, bệnh dịch hạch thường phát triển mạnh vào mùa khô, phù hợp với mùa phát triển của chuột và bọ chét.
Tuy nhiên, dịch cũng được ghi nhận vào các thời gian khác trong năm kể cả trong mùa mưa.
Bệnh dịch hạch ở người gồm các thể bệnh: thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết, thể phổi và thể màng não, thường gặp hơn cả là thể hạch (chiếm hơn 90% các thể bệnh).
Thể hạch biểu hiện phát bệnh đột ngột, ớn lạnh, mệt mỏi, đau cơ, đau bụng, buồn nôn và đau đầu.
Bệnh chuyển sang giai đoạn toàn phát với các triệu chứng đặc trưng là nhiễm khuẩn, nhiễm độc và sưng hạch.
Hạch có thể to bằng ngón tay cái hoặc bằng quả trứng gà, lúc đầu đau và cứng chắc, sau đó, hạch mềm hoá mủ.
Thể hạch có thể tiến triển thành nhiễm khuẩn huyết, thể phổi hoặc viêm màng não thứ phát.
Nếu không được điều trị sớm và thích hợp, thể hạch rất dễ tiến triển đột ngột thành nhiễm khuẩn tối cấp với sốt cao 40 – 410C.
Tình trạng nhiễm khuẩn, nhiễm độc, huyết áp giảm, mạch nhanh, nhỏ, vật vã, rối loạn tinh thần, hôn mê, thường bệnh nhân chết trong vòng 3 – 5 ngày.
Thể nhiễm khuẩn huyết, thể phổi, thể viêm màng não thường là thứ phát.
Dịch hạch thể phổi rất nguy hiểm vì có thể lây truyền trực tiếp qua đường hô hấp từ người bệnh sang người lành và bùng phát thành dịch lớn.
Bệnh nhân có dấu hiệu ở phổi cho đến ngày cuối cùng của bệnh, đờm loãng, có bọt dính máu, thường xuất hiện tràn dịch màng phổi, có biến chứng phù phổi cấp, tỷ lệ tử vong cao.
Tác nhân gây bệnh là trực khuẩn dịch hạch (Yersinia pestis) thuộc họ Enterobacteriaceae, là trực khuẩn Gram âm.
Việc truyền Y. pestis tới cá thể không bị nhiễm bệnh có thể thực hiện được bằng bất kỳ phương tiện nào sau đây:
- *
Giọt tiếp xúc - ho hay chất nhầy mũi vào người khác.
- *
Tiếp xúc trực tiếp - chạm vào người bị bệnh, kể cả khi tiếp xúc tình dục.
- *
Tiếp xúc gián tiếp - thường là bằng cách chạm vào đất bị ô nhiễm hoặc bề mặt bị ô nhiễm.
- *
Lây truyền qua không khí - nếu vi sinh vật có thể tồn tại trong không khí trong thời gian dài.
- *
Truyền qua đường miệng - thường là từ thức ăn bị ô nhiễm hoặc nguồn nước không đảm bảo vệ sinh.
- *
Sự lây truyền qua sinh vật - do côn trùng hoặc các động vật khác thực hiện.
Yersinia pestis lây truyền trong các hồ chứa động vật, đặc biệt là ở loài gặm nhấm, trong các vùng ở tất cả các lục địa ngoại trừ Úc. Các khu vực tự nhiên của bệnh dịch hạch nằm trong một vành đai rộng ở vĩ độ nhiệt đới và cận nhiệt đới và phần ấm hơn của vĩ độ ôn đới trên toàn cầu, giữa hai đường 55 độ Bắc và 40 độ Nam.
Trái ngược với thông tin phổ biến, chuột không trực tiếp bắt đầu sự lây lan của bệnh dịch hạch. Nó chủ yếu là một bệnh trong bọ chét (Xenopsylla cheopis) làm nhiễm bệnh cho chuột, làm cho chuột trở thành nạn nhân đầu tiên của bệnh dịch hạch. Nhiễm trùng ở người xảy ra khi một người bị cắn bởi một con bọ chét hoặc bị cắn bởi một loài gặm nhấm mà chính nó đã bị nhiễm trùng bởi vết cắn của một con bọ mang bệnh. Các vi khuẩn nhân lên trong bọ chét, gắn bó với nhau để tạo thành một phiến chặn dạ dày của nó và làm cho nó đói. Bọ chét cắn một cá thể chủ và vẫn tiếp tục hút máu, mặc dù nó không thể ngăn được cơn đói của nó, và con bọ chét có thể sẽ chuyển sang hút máu ở một vật chủ khác. Theo vết cắn, các vi khuẩn bệnh dịch hạch lây nhiễm vào một cá thể mới, cứ như vậy trước khi con bọ chét chết đói. Sự bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng thường xảy ra do các vụ dịch bệnh khác ở loài gặm nhấm, hoặc sự gia tăng dân số của động vật gặm nhấm.
Con Bọ Chét làm lây lan dịch bệnh
Năm 1894, hai nhà nghiên cứu vi khuẩn, Alexandre Yersin của Pháp và Kitasato Shibasaburō của Nhật Bản, đã phân lập được vi khuẩn ở Hồng Kông, nơi diễn ra trận đại dịch thứ ba. Mặc dù cả hai nhà điều tra đã báo cáo kết quả của họ, một loạt các tuyên bố mập mờ và mâu thuẫn của Kitasato cuối cùng đã dẫn đến việc chấp nhận Yersin là người phát hiện ra vi khuẩn. Yersin đã đặt tên nó là Pasteurella pestis để tôn vinh Viện Pasteur, nơi ông làm việc, nhưng năm 1967 nó đã được chuyển sang một chi mới, đổi tên thành Yersinia pestis để tôn vinh Yersin. Yersin cũng lưu ý rằng những con chuột này bị ảnh hưởng bởi dịch hạch không chỉ trong các vụ dịch bệnh dịch mà còn thường xảy ra trước những vụ dịch như thế ở người, và dịch bệnh này đã được nhiều người dân địa phương coi là bệnh của chuột: người dân ở Trung Quốc và Ấn Độ khẳng định rằng khi một số lớn chuột đã được tìm thấy đã chết, dịch bệnh bùng phát ngay sau đó.
Năm 1898, nhà khoa học người Pháp Paul-Louis Simond (người cũng đã đến Trung Quốc để chống lại đại dịch thứ ba) đã phân lập rầy, chim chóc gây bệnh. Ông đã lưu ý rằng nhiều người bị bệnh đã không tiếp xúc gần gũi với nhau để mắc căn bệnh này. Ở Vân Nam, Trung Quốc, người dân sẽ chạy trốn khỏi nhà ngay khi nhìn thấy chuột chết, và trên đảo Formosa (Đài Loan), người dân đã xem xét việc xử lý những con chuột chết làm tăng nguy cơ mắc bệnh dịch hạch. Những quan sát này khiến ông nghi ngờ rằng bọ chét có thể là một yếu tố trung gian trong việc truyền bệnh dịch hạch, vì người ta mắc bệnh dịch hạch chỉ khi họ tiếp xúc với chuột chết gần đây, những con chết cách đây chưa đầy 24 giờ. Trong một thử nghiệm cổ điển hiện nay, Simond đã chứng minh làm thế nào một con chuột khỏe mạnh chết vì bệnh dịch hạch sau khi con bọ chét đã bám lấy nó.
- *
Trong 15 năm qua (1989-2003), 38.310 trường hợp mắc với 2.845 bệnh nhân tử vong ghi nhận từ 25 quốc gia trên thế giới.
- *
Một số quốc gia báo cáo bệnh nhân dịch hạch cho Tổ chức Y tế Thế giới hàng năm là Công Gô, Madagascar, Tanzania ở Châu Phi, Pêru và Hoa Kỳ ở Châu Mỹ, Mông Cổ và Việt Nam ở Châu Á.
- *
Tại Việt Nam, bệnh lan truyền từ loài gậm nhấm (chủ yếu là chuột) sang người, chủ yếu qua bọ chét chuột (Xenopsylla cheopis). Đây là véc tơ chính truyền bệnh dịch hạch.
- *
Ổ chứa là các loài gặm nhấm, chủ yếu là các loài chuột. Tại Việt Nam, chủ yếu là các loài chuột sống trong và xung quanh khu dân cư.
- 1.
Phổ biến nhất là qua trung gian bọ chét, đặc biệt là Xenopsylla cheopis: Bọ chét hút máu vật chủ, vi khuẩn dịch hạch nhân lên trong tiền dạ dày (proventriculus) của bọ chét. Khi chuyển sang đốt vật chủ mới thì vi khuẩn sẽ theo vết đốt vào cơ thể vật chủ mới
- 2.
Lan truyền trực tiếp từ vật chủ bệnh sang vật chủ lành không qua trung gian của bọ chét như:
- *
Hít vào trực tiếp vi khuẩn dịch hạch tồn tại trong không khí do tiếp xúc “đối mặt” với dịch hạch thể phổi hoặc vật chủ chết vì dịch hạch.
- *
Vi khuẩn dịch hạch xâm nhập trực tiếp qua da có hoặc không có tổn thương như tiếp xúc tay trực tiếp vào động vật bị bệnh, nhân viên các phòng xét nghiệm về vi khuẩn dịch hạch, động vật nuôi trong nhà (thường gặp nhất là mèo) cắn hoặc cào.
Nếu được chẩn đoán kịp thời, các dạng bệnh dịch hạch khác nhau thường đáp ứng cao với liệu pháp kháng sinh. Thuốc kháng sinh thường sử dụng là streptomycin, chloramphenicol và tetracycline. Trong số các loại thuốc kháng sinh thế hệ mới, gentamicin và doxycycline đã chứng minh hiệu quả trong điều trị đơn trị bệnh dịch hạch.
Gần đây xuất hiện các vi khuẩn bệnh dịch hạch có thể chịu được thuốc kháng sinh, và một lần nữa căn bệnh trở thành một mối đe dọa sức khỏe lớn. Một trường hợp có dạng vi khuẩn chống được thuốc kháng sinh đã được tìm thấy ở Madagascar vào năm 1995. Sự bùng phát thêm ở Madagascar được báo cáo vào tháng 11 năm 2014.
Xã hội hóa công tác phòng chống dịch hạch
- *
Thường xuyên theo dõi kết quả giám sát dịch tễ học dịch hạch để chủ động phòng chống bệnh dịch.
- *
Tuyên truyền giáo dục cộng đồng thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường, bố trí và sắp xếp vị trí cũng như cấu trúc nhà ở.
- *
Các hiện tượng sốt, nổi hạch phải đến cơ sở y tế để khám và điều trị.
- *
Chuẩn bị sẵn sàng cơ số thuốc điều trị, hoá chất, phương tiện, nhân lực phục vụ chống dịch.
Diệt chuột.
- *
Hoá chất diệt chuột: Dùng hoá chất đa liều như Warfarin 0,05% hoặc Brodifacoum 0,005 – 0,01%, tốt nhất ở dạng thương phẩm như Klerat, Rat Killer, strom.
- *
Chỉ sử dụng hoá chất diệt chuột đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu hành.
- *
Diệt định kỳ hàng năm từ 1 đến 2 lần vào thời gian sinh sản của chuột, thời gian cụ thể tuỳ từng địa phương. Kết hợp diệt chuột và bọ chét bằng việc sử dụng hộp mồi theo nguyên tắc hộp mồi
Diệt Bọ Chét:
- *
Phun hoá chất phù hợp dạng tồn lưu như Permethrin 0,2 g/m2, Vectron 01 – 0,2 g/m2.
- *
Hoặc các hoá chất diệt bọ chét khác đã được Bộ Y tế cho phép sử dụng trong y tế và gia dụng (cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu hành).
- *
Phun hoá chất diệt bọ chét sau 7-10 ngày nếu thấy chỉ số bọ chét tự do ký sinh còn lớn hơn 1 và mật độ bọ chét tự do lớn hơn 1 phải tiếp tục phun lần 2.
- *
Nếu diện rộng phải dùng máy phun có động cơ phun ULV . Phun đúng kỹ thuật, đúng liều lượng và nồng độ thuốc.
DIỆT GIÁN, CHUỘT, CÔN TRÙNG BAY TẬN GỐC UY TÍN GIẢM GIÁ 40%
BẢO HÀNH DÀI HẠN 1- 5 NĂM
KHẢO SÁT MIỄN PHÍ - KỸ THUẬT GIỎI HƠN 10 NĂM KINH NGHIỆM
Công ty WINPEST VIỆT NAM chúng tôi nhận diệt GIÁN, CHUỘT, CÔN TRÙNG BAY nhà dân và các công trình xây dựng như Công ty, Nhà hàng, Khách sạn, Chung cư, Biệt thự...
Quý khách cần DIỆT GIÁN, CHUỘT, CÔN TRÙNG BAY:
GỌI NGAY: 0795 455 650 - 0879 193 255 ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN DỊCH VỤ DIỆT GIÁN, CHUỘT, CÔN TRÙNG BAY TẬN GỐC 100% CÁC LOẠI, TIẾT KIỆM CHI PHÍ CHO GIA ĐÌNH BẠN NHẤT